Khi một danh tướng viết về một danh tướng [28/02/2014]
Nhân kỷ niệm 700 năm ngày mất Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (16.9.2000), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có bài viết “Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị anh hùng dân tộc kiệt xuất” nhân hội thảo về Trần Quốc Tuấn. Xin được lược trích lại bài viết này để chúng ta có thể thấy đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - một danh tướng tầm cỡ thế giới về một vị anh hùng dân tộc - thiên tài quân sự của nước nhà. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Ba lần đánh thắng đạo quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất thời đại
Nửa cuối thế kỷ XIII, trong vòng 30 năm (1258-1288) giặc Mông - Nguyên đã 3 lần xâm lược nước ta và 3 lần bị quân dân Đại Việt đánh bại hoàn toàn. Bấy giờ giặc Mông - Nguyên là đạo quân xâm lược mạnh nhất, hung bạo nhất thế giới.
Từ những thảo nguyên bao la của miền Bắc Á, với tài phi ngựa bắn cung, đội quân Mông Cổ khét tiếng đã tung hoành khắp các lục địa từ Á sang Âu, nô dịch các dân tộc, thôn tính các quốc gia, lập nên một đế chế rộng lớn từ Thái Bình Dương đến tận bờ Hắc Hải. Vó ngựa của chúng đi đến đâu gieo rắc sự hoang tàn hủy diệt đến đó.
Trong mưu đồ cuồng vọng của đế chế Mông - Nguyên, nước Đại Việt có vị trí đặc biệt quan trọng. Mục đích của chúng là thôn tính nước ta, mở đường tràn xuống vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, kẻ hiếu chiến đã không lường được rằng chính Đại Việt là nơi chôn vùi uy danh của những đạo kỵ binh xâm lược đã từng bách chiến bách thắng.
Tiến vào nước ta, giặc Mông - Nguyên đã gặp phải sức mạnh kháng chiến của cả một dân tộc. Nhân dân cả nước ta chung lưng đấu cật, kiên cường và mưu trí, liên tiếp chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Dân tộc ta không những đã bảo vệ chủ quyền độc lập tự chủ của mình mà còn góp phần làm cho nhiều dân tộc khác thoát khỏi hiểm họa bị xâm lược và thôn tính.
Năm 1258, lần thứ nhất xâm lược Đại Việt, quân Mông Cổ tưởng rằng sẽ dễ dàng nuốt chửng nước An Nam nhỏ bé. Chúng nhanh chóng chọc thủng các tuyến phòng ngự của ta, tiến vào kinh đô. Triều đình và quân đội phải rút khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng.
Kẻ địch không ngờ rằng chỉ 9 ngày sau khi chiếm được Thăng Long, kỵ binh của chúng đã lâm vào tình trạng thiếu lương ăn, bị chặn đánh khắp nơi, ngày càng thế suy lực yếu. Đòn phản công mạnh mẽ của quân ta ở Đông Bộ Đầu đã khiến đoàn quân viễn chinh vừa qua khí thế hung hăng, nhanh chóng bị tan rã, hoảng loạn và tháo chạy. Đó là thất bại lớn đầu tiên của đội kỵ binh thiện chiến người Mông Cổ.
Hai mươi bảy năm sau (1285), sau khi đánh bại nhà Tống, lập nên triều Nguyên ở Trung Quốc, giặc Mông - Nguyên lại phát động chiến tranh xâm lược Đại Việt với quy mô lớn gấp nhiều lần. Đại quân của chúng do Thoát Hoan và Toa Đô chỉ huy từ phía bắc đánh xuống, từ phía nam tiến lên, hình thành hai gọng kìm giáp công xâm lược. Chúng đã đem sức mạnh 60 vạn quân, kết hợp kinh nghiệm chinh phạt còn nóng hổi của quân Mông Cổ với kinh nghiệm lâu đời của chủ nghĩa bành trướng đại Hán, tưởng chừng như trong chốc lát tiêu diệt quân chủ lực của ta, bắt triều đình nhà Trần phải quy phục.
Lần nữa, chúng lại không ngờ vấp phải sức mạnh kháng chiến quyết liệt của toàn dân ta. Tinh thần và ý chí “Sát Thát” từ Hội nghị Bình Than tới Hội nghị Diên Hồng đã được nhân lên trong cuộc chiến tranh giữ nước. Cả dân tộc thề không đội trời chung với kẻ thù, toàn dân thực hiện mệnh lệnh của triều đình: “Tất cả các quận huyện nơi có giặc đến phải liều chết mà đánh; nếu không đánh được cho phép trốn vào rừng núi, không được đầu hàng giặc”.
Quân xâm lược đi đến đâu cũng bị quân địa phương và dân binh của ta tiến đánh, lương thảo nơi đồng nội đều bị giấu sạch. Quân giặc phải rải quân chiếm đóng, sức tiến công ngày càng giảm sút. Quân đội và triều đình nhà Trần thực hành rút lui chiến lược để tránh cái khí thế hăng hái lúc ban mai, đánh cái thế tàn lụi lúc buổi chiều của giặc.
Trong vòng 5 tháng liền, quân Mông - Nguyên muốn đánh mà không được đánh; càng ngày càng sa vào hao mòn, mệt mỏi và thiếu thốn như “bị treo lơ lửng ở khoảng giữa”, tài phi ngựa bắn cung không thi thố được. Nhằm thời cơ ấy, quân ta chuyển sang phản công. Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp - các trận quyết chiến liên tiếp diễn ra, giành thắng lợi dồn dập. Thành Thăng Long được giải phóng. Thoát Hoan thế cùng phải chui vào ống đồng mới thoát thân. Quân và dân Đại Việt lập nên chiến công hiển hách, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của giặc Mông - Nguyên.
Năm 1288, quân Mông - Nguyên lại một lần nữa xâm lược Đại Việt. Rút kinh nghiệm 2 cuộc chiến tranh trước, lần này quân giặc hành quân thận trọng. Chúng chuẩn bị đầy đủ lực lượng, gồm cả bộ binh, kỵ binh và thủy binh tinh nhuệ, lại mang theo cả lương thảo với quyết chí phục thù, tiêu diệt bằng được quân chủ lực và bắt sống triều đình nhà Trần. Nhưng, cũng như 2 lần xâm lược trước, quân Mông - Nguyên đi đến đâu cũng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của quân dân các địa phương, còn lương thảo thì đâu đâu cũng bị giấu sạch.
Lần này, ngay từ đầu Trần Quốc Tuấn đã chủ động rút lui, từng bước dẫn dắt quân địch vào thế trận đã bày sẵn. Quân giặc sa vào thế trận làng nước của chiến tranh nhân dân Việt Nam, thiếu lương ăn, thương vong ngày một nhiều, ốm đau do trời nóng nực, tinh thần sụp đổ. Khi bất ngờ nhận được tin đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ bị tiêu diệt thì bọn tướng soái nhà Nguyên vô cùng hoảng loạn. Thoát Hoan cùng Ô Mã Nhi vội chia quân rút theo 2 đường thủy, bộ.
Nhưng với trận quyết chiến Bạch Đằng lịch sử, toàn bộ đạo thủy quân của địch đã bị tiêu diệt và bị nhấn chìm trong sóng nước. Chủ tướng giặc là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp bị bắt sống, quân của Thoát Hoan bị tiêu diệt phần lớn trên đường rút lui từ Vạn Kiếp đến biên cương. Cuộc kháng chiến lần thứ ba của quân và dân Đại Việt giành được thắng lợi rực rỡ. Từ đó, giặc Mông - Nguyên từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta.
Như vậy, hồi thế kỷ XIII, dưới triều Trần, dân tộc ta hoàn toàn dựa vào sức mình, không có sự chi viện từ bên ngoài đã phải 3 lần đương đầu với những đạo quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất thời đại và đã đánh thắng chúng. Kẻ địch tiến vào nước ta ào ào như gió, như lửa. Chúng phá vỡ các phòng tuyến của ta, cả 3 lần đều chiếm được kinh thành Thăng Long và nhiều địa bàn quan trọng khác. Trước khí thế hung hãn chưa từng có của giặc Mông - Nguyên, dân tộc Việt Nam không hề biết sợ.
“Tiểu dân thanh dã, đoản binh phục hậu”, từ miền ngược đến miền xuôi, từ núi rừng đến sông biển, tất cả các quận huyện trong nước, hễ giặc đến đều đứng lên đoàn kết chiến đấu, dựa vào thôn xóm, làng bản, địa hình hiểm trở để kiên quyết chống trả. Tổng kết 3 cuộc kháng chiến, cả nước chỉ có 2 hương không chống giặc khi chúng đi qua, còn ở đâu cuộc chiến đấu cũng kiên cường, ở đâu quân dân ta cũng đã gây cho quân xâm lược những tổn thất nặng nề và cuối cùng bị đánh bại.
Sức mạnh của nước Đại Việt thời Trần bắt nguồn từ sức sống mãnh liệt, từ nền văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc, từ lòng yêu nước, chí khí đấu tranh bất khuất, từ truyền thống nhân ái và cố kết, trí thông minh và sáng tạo để tôi luyện trong quá trình chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
Dưới thời Trần, chế độ phong kiến tập quyền đang ở vào thời hưng thịnh; nhiều chính sách tiến bộ về kinh tế và văn hóa đã được thi hành. Nền văn minh Đại Việt đang trên đà phát triển rực rỡ với hào khí Đông A nổi tiếng. Chính nhờ vậy mà khi giặc đến nhà cả nước cùng đánh, sức mạnh cả dân tộc đã được huy động; khi giặc lui thì toàn dân lại ráo riết chuẩn bị, đề phòng. Đánh 1 trận rồi đánh 2 trận, 3 trận, trận sau lớn hơn và thắng lợi to hơn, cuối cùng đã toàn thắng.
Sự nghiệp quân sự hiển hách của Hưng Đạo Vương
Trong sự nghiệp hiển hách 3 lần chiến thắng quân xâm lược Mông - Nguyên ở thế kỷ XIII, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông là một nhà chính trị - quân sự đại tài, được vua Trần tin yêu, giao quyền Tiết chế, thống suất tất cả vương hầu, tôn thất, tướng lĩnh, điều động binh nhung, khí giới. Khi quân Mông - Nguyên xâm lược lần thứ nhất (1258), ông được cử chỉ huy các tướng lĩnh điều quân thủy bộ bảo vệ vùng biên giới Tây Bắc. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), ông được cử làm Quốc công Tiết chế, thống lĩnh toàn quân đánh giặc.
Bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở quyết tâm diệt địch và thắng địch không gì lay chuyển. Ngay những lúc gian nan nguy hiểm nhất, ông vẫn tin vào thắng lợi, giữ vững lòng quân lòng dân. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), khi sự mất-còn của nền độc lập nước nhà chỉ còn trong gang tấc, quân xâm lược đã chiếm được nhiều địa bàn trọng yếu, trong đó có cả kinh thành Thăng Long và phủ Thiên Trường, nội bộ quý tộc và quan lại triều Trần đã có người nao núng, hàng giặc, Trần Quốc Tuấn vẫn hiên ngang bất khuất, giữ vững lòng tin son sắt vào thắng lợi. Câu nói bất hủ của ông: “Bệ hạ muốn hang, trước hết hãy chém đầu thần đi đã”- đã nêu một tấm gương lớn về tinh thần quyết chiến và ý chí “Sát Thát” trước triều đình, trước toàn quân và toàn dân ta.
Tài năng của Trần Quốc Tuấn biểu hiện ở chỗ ông nhận thức rất rõ nhân dân là nguồn sức mạnh giữ nước. Nguồn sức mạnh đó phải được xây dựng, bồi dưỡng lâu dài trong thời bình cũng như trong thời chiến, bằng chính sách kinh tế, văn hóa-xã hội. Ông chủ trương: “Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”.
Ông xem việc đoàn kết nội bộ là một nhân tố cực kỳ quan trọng để tạo thành sức mạnh. Nhìn lại 3 cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi, ông xác định: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà chung sức” là nhân tố đã làm cho “quân địch phải chịu bị bắt” (bỉ tựu tự cầm). Ông rất coi trọng đoàn kết quân và dân, đoàn kết trong quân đội “như cha con một nhà”. Chính nhờ nguồn sức mạnh đó mà dân tộc Việt Nam đã có thể đứng vững và vượt qua những thử thách ghê gớm của họa xâm lăng khốc liệt do đế quốc Mông - Nguyên gây ra.
Trần Quốc Tuấn là vị thống soái có tài năng quân sự tuyệt vời. Nắm vững yêu cầu chiến lược lấy nhỏ thắng lớn, cả nước đánh giặc, ông chủ trương lấy đoản binh chống trường trận, xem đó là điều bình thường trong binh pháp nước ta; kết hợp tác chiến của quân triều đình với tác chiến và đấu tranh của lực lượng quân dân các địa phương: “Tiêu dân thanh dã, đoản binh phục hậu”.
Cái tài giỏi của Trần Quốc Tuấn là biết chuyển tình thế từ hiểm nghèo sang thuận lợi, xoay chuyển thế trận, tạo nên thời cơ. Và khi thời cơ đến thì chuyển sang phản công, tiến công; chọn đúng hướng, đúng mục tiêu, đánh những trận quyết định, khiến kẻ thù không kịp trở tay, trong chốc lát đã bị thất bại.
Tài thao lược của Trần Quốc Tuấn nổi bật là tính chủ động và linh hoạt “biết người, biết mình”, chủ động điều địch, chủ động đánh địch, “xem xét quyền biến… tùy thời gian mà làm”.
Câu trả lời của ông với vua Trần Nhân Tông: “Năm nay đánh giặc nhàn” khi quân Mông - Nguyên tiến công xâm lược lần thứ 3 (1288), chứng tỏ vị chủ tướng đã biết rõ địch, biết rõ ta, phân tích sâu sắc tình hình thực tiễn và làm chủ được quy luật của chiến trận. Trong cuộc kháng chiến này, giặc chưa bị đánh lớn mà đã bị sợ hãi rút chạy, rốt cuộc bị tiêu diệt trên sông Bạch Đằng và ở biên giới. Đó là kết quả kỳ diệu của phương pháp dùng binh độc đáo của ông.
Trần Quốc Tuấn quả là một vị tướng mưu lược, là con người của những quyết định lớn trong những thời cơ lớn. Nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên là đỉnh cao của nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại phong kiến. Người đề ra và vận dụng thiên tài chiến lược, chiến thuật chiến tranh nhân dân đó không ai khác là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta, đã xuất hiện hình thái thế trận của dân chúng đánh giặc ở khắp các xóm làng, kết hợp chiến đấu của quân triều đình với quân các lộ và dân binh, tiêu diệt quân địch trong những trận lớn, xây dựng một thế trận rộng mà sâu, mạnh mà vững, luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công, tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng quân thù.
Trần Quốc Tuấn không chỉ là vị thống soái lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến mà còn là một nhà lý luận, một nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng. Từ lời hịch kêu gọi tướng sĩ đầy khí phách hiên ngang đến bản Di chúc lịch sử, những nội dung tư tưởng tiên tiến của ông đã được khẳng định. Ông đã dày công nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của dân tộc, học tập những tư tưởng quân sự tiến bộ của nước ngoài, rút ra những điều tinh túy, kết hợp với những tri thức quân sự từ thực tiễn chỉ đạo chiến tranh của mình, viết thành những bộ binh thư có giá trị nhằm phục vụ cho sự nghiệp giữ nước.
Trần Quốc Tuấn đã để lại cho đời nhiều tác phẩm lý luận quân sự có giá trị, khẳng định một bước phát triển quan trọng của khoa học quân sự Việt Nam. Với Trần Quốc Tuấn, một học thuyết quân sự dân tộc trong chiến tranh giữ nước. Chính trên cơ sở này, Lê Lợi - Nguyễn Trãi phát triển thành công học thuyết quân sự dân tộc trong chiến tranh giải phóng; Nguyễn Huệ tiếp tục phát triển thành học thuyết quân sự dân tộc trong khởi nghĩa của nông dân, trong chiến tranh giữ nước.
Những quan điểm tư tưởng chính trị - quân sự của ông về dựa vào dân, khoan thư sức cho dân, về xây dựng khối đại đoàn kết trong hoàng tộc và triều đình, trong toàn quân và cả nước, về phương châm chiến lược “dĩ đoản chế trường”, “quân đội cốt tinh không cốt nhiều, trên dưới một dạ như cha con…” là những tư tưởng tiên tiến, đúng đắn và sáng tạo, vượt thời đại, mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị.
Trần Quốc Tuấn là anh hùng kiệt xuất, không chỉ về tài năng quân sự mà còn có đạo đức tiêu biểu của một vị chủ tướng. Ông luôn nêu tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa, ý thức gạt bỏ mọi hiềm khích riêng tư để đoàn kết tôn thất, triều đình và tướng lĩnh, tạo nên một cội nguồn của thắng lợi. Ông chủ trương “bạt dụng lương tướng”, dùng người hiền lương, biết chọn và đào tạo tướng giỏi, thường trọng dụng và tiến cử những người tài giúp nước. Ông quý trọng những người cộng sự, thương yêu binh lính và họ cũng hết mực trung thành với ông; đội quân phụ tử của ông đã trở thành đội quân bách thắng.
Triều đình nhà Trần đã xây dựng nên một đội ngũ tướng lĩnh kiên cường, tài giỏi, đoàn kết nhất trí, phần đông là văn võ song toàn. Lịch sử đời đời ghi nhớ chiến công và thành tích của các vị tướng từ Trần Quang Khải, Trần Nhuật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Lê Phụ Trần, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Đỗ Khắc Chung cho đến Yết Kiêu, Dã Tượng…
Năm 1289, trong niềm vui toàn thắng, đô thành bị đổ nát, đất nước hoang tàn, vua Nhân Tông hạ chỉ gấp rút tu sửa thành Thăng Long. Trần Quốc Tuấn can rằng: “Việc sửa lại thành trì không cần kíp lắm. Việc cần kíp triều đình cần phải làm ngay không thể chậm trễ được là việc úy lạo nhân dân. Hơn 4 năm, quân giặc 2 lần tràn sang đánh phá, từ nơi núi rừng đến nơi đồng ruộng đều bị tàn phá hầu hết. Vậy mà dân chúng vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài, xuất lực, đi lính, đóng thuế làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống nhau với giặc.
Nay nhà vua đã được trở về yên ổn, việc cần làm trước hết là chú ý ngay đến dân. Những nơi nào bị tàn phá, tùy tình trạng nặng nhẹ mà cứu tế. Nơi nào bị tàn phá quá nặng có thể miễn tô thuế cả mấy năm. Có như thế dân mới nức lòng càng quy hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa đã nói: “Chúng chí thành thành”. Đó mới là cái thành cần sửa chữa ngay. Xin nhà vua xét kỹ”. Vua Trần Nhân Tông đã nghe theo lời khuyên.
Trần Quốc Tuấn quả là một nhân cách lớn, có tấm lòng vì dân vì nước. Tuy ở ngôi cao chức trọng mà vẫn giữ tiết nhã nhặn, không tự tiện làm những việc trái với kỷ cương phép nước; ông không ham lợi giàu sang, lòng trung trong sáng, được mọi người tôn quý và tin yêu. Ông không lạm dụng quyền hạn. Vì có công lớn, ông được phong làm “thượng quốc công”, được quyền tự ban thưởng cho người khác. Sử sách ghi chép lại rằng, ông đã cẩn trọng giữ gìn, chưa hề tự mình ban thưởng cho ai.
Những chiến công đánh bại đế quốc Mông - Nguyên, những cống hiến trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng và nghệ thuật quân sự của Trần Quốc Tuấn đã đưa ông lên hàng anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Việt Nam, xứng đáng là một danh nhân quân sự tầm cỡ thế giới.
Với tài năng chính trị, quân sự kiệt xuất, với tấm lòng tận trung với vua, với nước, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã cùng triều đình nhà Trần và quân dân Đại Việt bảo vệ trọn vẹn độc lập dân tộc, đưa triều đại nhà Trần lên hàng triều đại thịnh trị trong lịch sử trung đại, để lại những bài học lịch sử có giá trị về dựng nước và giữ nước. Những thành tựu về võ công và văn trị, những giá trị vật chất và tinh thần thời Trần đã làm vẻ vang lịch sử dân tộc, là niềm tự hào lớn lao cho Tổ quốc ta.
Theo Lao Động