VỊNH SỬ THỜI AN DƯƠNG VƯƠNG [24/12/2012]
SƠ LƯỢC BỐI CẢNH LỊCH SỬ
An Dương Vương 257-207 trước Tây Lịch):
Tên húy là Thục Phán, đánh bại Hùng Vương thứ 18 năm 258 trước Tây Lịch, lấy nước Văn Lang đổi tên là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (Huyện Đông Anh, Tỉnh Phúc Yên - Bắc Việt) trị vì 50 năm.
KIẾN TRÚC THÀNH CỔ LOA VÀ VĂN MINH NHÀ THỤC:
An Dương Vương xây thành Cổ Loa, có 9 vòng xoáy ốc. Bên ngoài thành là hệ thống giao thông hào như kinh rạch, có thể phòng thủ bằng thủy quân rất kiên cố, là một kiến trúc cổ chứng tỏ nền văn minh khá sớm của dân tộc Việt. Thành Cồ Loa còn được phòng thủ bằng hệ thống cung nỏ liên châu, bắn một phát ra hàng trăm mũi tên đồng. Nhờ đó, An Dương Vương đã đẩy lui các cuộc tấn công xâm lăng của Triệu Đà.
Nỏ liên châu là một phát minh mới thời An Dương Vương. Hiện nay, tại đền thờ An Dương Vương có trưng bày nhiều mũi tên bằng đồng nhỏ đào được ở dưới đất trong các cuộc khảo cổ. Cuộc nghiên cứu vẫn còn đang tiếp tục.
TRIỆU ĐÀ & NƯỚC NAM VIỆT
Năm 207 trước Tây Lịch, Triệu Đà đánh được An Dương Vương bèn sát nhập nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập ra một nước mới gọi là Nam Việt. Triệu Đà lên làm vua tức là Triệu Vũ Vương, lập ra nhà Triệu, đóng đô ở Phiên Ngung, truyền được 5 đời vua trong 96 năm.
- Triệu Vũ Vương (207-137 trước Tây Lịch)
- Triệu Văn Vương (137-125 trước Tây Lịch)
- Triệu Minh Vương (125-113 trước Tây Lịch)
- Triệu Ai Vương (113- 112 trước Tây Lịch)
- Triệu Dương Vương (112-111 trước Tây Lịch).
Triệu Đà mang văn minh Trung Quốc sang truyền bá trong nước Nam Việt, nhất là phổ biến việc xử dụng các loại điền khí (dụng cụ làm ruộng bằng sắt).
· Nhà Triệu truyền đến đời vua Triệu Ai Vương thì Thái Hậu Cù Thị (ngưiời Hán, Anh Tề cưới khi sang Hán làm con tin) thông với nhân tình cũ là An Quốc Thiếu Quí, sứ giả nhà Hán mưu toan đem nước Nam Việt nội thuộc nhà Hán. Tể Tướng Lữ Gia là người Nam Việt can ngăn không được bèn giết Cù Thị và Ai Vương (tên húy là Hưng, con Cù Thị), rồi lập Kiến Đức (mẹ người Nam Việt) lên làm vua tức Triệu Dương Vương.
· Năm 111 trước Tây Lịch, vua Hán sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang đánh lấy nước Nam Việt.
CHUYỆN TÌNH MỴ CHÂU TRỌNG THỦY:
Theo truyền thuyết, An Dương Vương phải nhờ thần Kim Qui giúp sức mới xây xong Loa Thành. Thần Kim Qui cho An Dương Vương một cái móng dùng làm lẫy nỏ thần, hễ bắn ra một phát, có hàng trăm mũi tên phóng ra tiêu diệt kẻ thù. Nhờ thế, quân Triệu Đà không thể nào đánh bại được An Dương Vương.
Triệu Đà bèn dùng mưu kế, cho con Trọng Thủy xin cưới Mỵ Châu là con gái An Dương Vương.
Trọng Thủy lấy được Mỵ Châu rồi, dò hỏi vợ bằng cách nào, không ai đánh được nước Âu Lạc? Mỵ Châu ngay tình, kể chuyện chiếc nỏ thần và đưa nỏ khoe chồng. Trọng Thủy bèn đánh tráo nỏ thần bằng nỏ giả. Khi sắp từ giã vợ để trở về thăm cha, Trọng Thủy còn nói với vợ rằng: “Lỡ gặp giặc giã đánh đuổi, làm sao có thể tìm nhau?” Mỵ Châu trả lời: “Thiếp có áo lông ngỗng, khi chạy về đâu, thiếp sẽ rắc lông ngỗng xuống đường để chàng theo đó mà tìm.”
An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị. Khi Triệu Đà mang quân đánh Loa Thành, An Dương Vương mới đem nỏ ra bắn, nhưng không còn hiệu nghiệm nữa..
An Dương Vưong thua chạy về phía Mộ Dạ. Mỵ châu ngồi sau lưng cha, rắc lông ngỗng để Trọng Thủy đi tìm nàng như lời đã hứa. Giặc đuổi theo quá gấp, An Dương Vương khấn thần Kim Qui giúp đỡ. Thần Kim Qui hiện ra cho biết kẻ thù dẫn lối cho giặc đuổi theo chính là Mỵ Nương đang ngồi ở sau lưng. An Dương Vương quay lại, thấy thế bèn vung gươm chém con gái và nhẩy xuống biển tự tử..
Trọng Thủy lần theo vết lông lỗng , biết vợ đã chết cũng nhẩy xuống giếng trước thành Cổ Loa tự tận. Người ta đồn rằng những con trai dưới biễn uống phải chất máu oan khiên của nàng Mỵ Châu, đã hóa ra có ngọc trân châu. Ngọc này đem về rửa với nước giếng nơi Trọng Thủy chết, sẽ trở thành trong sáng, lóng lánh đẹp lạ thường
Ngày nay tại làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương có một cái giếng theo tục truyền Trọng Thủy đã nhẩy xuống đó.. Ngoài ra, trên núi Mộ Dạ, gần xã Cao Ái, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An, có đền thờ An Dương Vương, gọi là đền Công vì có nhiều chim công ở đó. Hàng năm, lễ kỷ niệm vào ngày mồng 6 tháng Giêng Âm Lịch.
Người đời sau làm thơ ca vịnh mối tình Mỵ Châu Trọng Thủy là vì lòng thương cảm nỗi oan khiên của đôi vợ chồng sống chết cò nhau...Tấm chân tình Mỵ Châu Trọng Thủy mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt.
THƠ CA VỊNH
Mỵ Châu, Trọng Thủy
Một đôi kẻ Việt người Tần,
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương.
Vuốt rùa chàng đổi máy,
Lông ngỗng thiếp đưa đường.
Thề nguyền phu phụ,
Lòng nhi nữ,
Việc quân vương,
Duyên nọ tình kia dở dở dang.
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ.
Ngọc trai nước giếng,
Ngàn thu khói nhang.
Tản Đà (Khối tình con)
Vịnh Bi Kịch Thành Loa
Thành Loa trăm thước chẳng còn bền,
Máy rùa ba tấc chẳng là thiêng.
Nước nhà dấy, mất tại người cả.
Gió mưa gây dựng công khó nhọc.
Nam gồm Văn Lang, bắc Ba Thục
Dư đồ muôn dặm mở mang tới
Một tấm sơn hà một tấm vóc
Sẵn sàng cơ nghiệp không biết giữ
Chiến đã không xong, hòa cũng ngộ
Biên phòng chểnh mảng, thù hận quên
Quanh quẩn một lầm hai tại lỡ,
Thân già đâu nới kẻ thù gia
Chồng nào thương vợ, con lìa cha
Giặc ngồi sau lưng nói chi nữa
Nước ôi nhà ôi, biển Đại Nha!...
Dương Bá Trạc
An Dương Vương
Trọng Thủy Mỵ Châu một cặp tình
Vì yêu thành vật chịu hy sinh
Triệu Đà tranh bá mưu tìm đất
Thục Phán đồ vương tính giữ thành
Thần nỏ chẳng qua là quốc trợ
Thiên tài mới thực để thời minh
Ngoại giao chính trị thường gian trá
Mất nước mong ai tự xét mình
Chính Hà
Mạnh Thu Đinh Mão
Thiên tình Sử
Trọng Thủy Mỵ Châu
Trọng Thủy
Cha con hiếu đạo làm đầu
Vợ chồng nghĩa nặng tình sâu ngút ngàn
Ta về bên ấy vấn an
Mai sau loạn lạc tìm nàng chốn đâu?
Mỵ Châu
Theo đường lông ngỗng rừng sâu
Xin chàng còn nhớ duyên đầu tìm nhau
Dù cho bốn phía binh đao
Cổ Loa thành cũng không vào được đâu
An Dương Vương
Theo cha tìm chốn bôn đào
Bao nhiêu cung nỏ thành cao chẳng còn
Nầy qua bao núi cùng non
Biển đông chắn lối giặc còn bên lưng
Thần Kim Qui
Sóng cao lấp lánh Qui Thần
Báo cho Vương giặc bên thân cận Ngài
Nỏ thần đã mất về tay
Giang sơn gấm vóc từ nay về người
Tự vẫn
Gươm vàng đẫm giọt máu tươi
Oan khiên kết tụ lưu đời ngọc châu
Trầm thân Trọng Thủy giếng sâu
Đời sau rửa ngọc muôn màu đẹp xinh
Trần ai lưu lại chút tình
Vũ Thị Thiên Thư
TRỌNG THỦY - MỴ CHÂU
Phất phơ lông ngỗng buổi chiều tà
Phiêu phưởng hồn ai tựa cỏ hoa
Oan trái còn vương theo vận nước
Nghiệp duyên đã dứt với tình nhà
Sa cơ một phút đành vong quốc
Ôm hận ngàn năm chịu bại gia
Bốn lạy tạ từ xin vĩnh biệt
Mỵ Châu nàng hỡi chứng lòng ta
Viễn Khách
MỴ CHÂU
Lông ngỗng lông ngan rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình
Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường là cái chết
Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu
Giá như trên đời còn có một Mỵ Châu
Vừa say đắm yêu đương vừa luôn luôn cảnh giác
Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ
Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ
Để chung thủy với tình yêu hai ngàn năm có lẻ
Như anh với em dẫu yêu nhau chung thủy
Đến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm
Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng
Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết
Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp
Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu
Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi cụt đầu nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào
Anh cũng như em muốn nhắc Mỵ Châu
Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được người hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình...
Anh Ngọc
ÐỌC TRUYỆN CỔ LOA THÀNH
Ðọc truyện cũ đau lòng thương Thục Ðế
Kìa! Vĩnh Yên, vết tích Cổ Loa sầu
Trang hận sử còn hoen vàng dấu lệ
Ðến bao giờ người hết phản ngờ nhau ?
Một vua Thục ỷ vào Thanh Giang Sử (1)
Vào nỏ thần, một phát, trúng muôn tên
Ðã hờ hững việc quốc gia phòng thủ
Giặc chiếm biên thùy, vua vẫn bình yên!
Một Triệu Ðà, đầy lòng gian ý hiểm
Cho con trai làm tế tử, cầu hòa
Với âm mưu lúc hương tình âu yếm
Lừa vợ hiền đem nỏ quý xem qua
Một Trọng Thủy với tấm lòng phản bội
Tráo nỏ thần, coi rẻ nghĩa phu thê
Vì tham vọng mà nhẫn tâm lừa dối
Nhận yêu thương, trả lại những ê chề!
Một Mỵ Châu ngây thơ và khờ khạo
Quá vô tình, bán đứng cả giang sơn
Bởi tin chồng, phận làm con lỗi đạo
Ðể oan khiên riêng chín suối ôm hờn
Vở bi kịch mở màn bằng câu hỏi
Về thăm cha, đất Triệu mấy trùng khơi
Nếu trong lúc ta trên đường rong ruổi
Phượng xa loan thăm thẳm một khung trời
Mà hai nước xảy ra điều chinh chiến
Ta tìm nàng đâu nhỉ, Mỵ Châu ơi?!
Không suy nghĩ, Mỵ Châu cười, mắt biếc
Hai quốc gia thuận thảo bởi ta rồi!
Hai quốc gia đã liên tình kết nghĩa
Thiếp không tin tai biến lửa binh reo
Nhưng nếu rủi mà loạn cuồng thiên địa
Thiên nga này, thiếp rắc, dấu chàng theo...
Rồi Triệu Ðà, Cổ Loa Thành vây hãm
Và nỏ thần Thục Ðế chẳng còn linh
Giữa lúc vua quan vô cùng hoảng loạn
Giặc chiếm thành, tên bắn, ngã muôn binh
Vua Thục Ðế bỏ Loa Thành lên ngựa
Cùng Mỵ Châu trốn chạy khỏi quân thù
Ðến Mộ Dạ, ngài khấn thần che chở
Kim Qui rằng đã muộn, giặc sau vua
Vua nhìn lại, thấy con mình, Công Chúa
Chớp ngang trời sấm dội, cõi lòng đau
Vua tuốt kiếm. Kiếm như hồn, tóe lửa
Ôi thiên hương tan nát giữa muôn sầu!
Ðọc truyện cũ đau lòng thương hiện tại
Những Mỵ Châu ngờ nghệch giấc Nam Kha
Một dân tộc, một quê hương quằn quại
Kim Qui nào mà giặc núp sau ta?!
NGÔ MINH HẰNG
(*) Tên của thần Kim Qui
Nhìn Cung Tên, Nhớ Mỵ Châu
Phút cuối đời hỡi Mỵ Châu yêu dấu
Em thấy gì khi máu đỏ trào dâng
Trời rất xanh và nắng cũng rất trong
Mây ngưng thở im nghe hồn Em khóc
Sóng dào dạt hứng từng giòng nước mắt
Rong còn nâng tay ngọc vướng hồng trần
Nhắm mắt đi Em, quên nỗi thương thân
Em chất ngất tin yêu và mê đắm
Những nụ hồng trong trái tim còn đậm
Những giọt sương còn in dấu thề nguyền
Nỗi đau nào theo giòng máu triền miên
Thấm trên cát hòa tan cùng biển tận
Những lừa lọc làm sao Em hiểu được
Lòng thơ ngây trong sáng ánh thủy tinh
Những tính toán , những ngọt ngào mưu chứơc
Bọc quanh Em gấm lụa với hương thanh
Ngàn lông ngỗng nhẹ bay cùng trời đất
Có chiếc nào theo gió cuộn hồn Em
Giữa chiêng trống giặc thù reo dậy đất
Em có nghe ai đau đớn gọi tên
Ơi Mỵ Châu ngậm ngùi ta tưởng tiếc
Nước giếng nào xóa được hết niềm đau
Thấm máu đào ngọc biếc cũng buồn theo
Nằm ngậm kín trong hồn loài ốc dại
Đặng Lệ Khánh
Cổ Loa Hoài Cảm (Bài Xướng)
Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
Trải bao gió táp với mưa sa
Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc,
Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha
Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh
Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa
Hưng vong biết chửa người kim cổ?
Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.
Trần Tuấn Khải
Thăm Di Tích Cổ Loa (Bài họa 1)
Dừng chân nền cũ, dấu thành Loa
Chạnh nhớ Mị châu, giọt lệ sa
Nghĩa vợ, nỏ thần đâu đáng kể
Tình chồng, lông ngỗng cũng như pha
Giếng sâu tạ lỗi, đau lòng bướm
Thạch nổi ân cần, nát dạ hoa(1)
Trọng Thủy chàng ôi, đời tục lụy
Hẹn nhau, thiên cổ dưới trăng tà!
Vương Sinh
(1) Mị Châu sau khi chết hóa thành tảng đá có hình dạng một thiếu phụ không đầu nổi trên sông và được dân chúng vớt đem thờ ở Cổ Loa, nơi đền An Dương Vương.
Duyên Tình Trong Lửa Hận Thù (Bài họa 2)
Thục Đế vang danh trấn Cổ Loa
Nỏ thần tên bắn tựa châu sa
Mắc mưu hòa giải thời phong nghịch
Lầm kế kết thân lúc ráng pha
Phụ tử gánh thù tan nát nước (1)
Phu thê mang nợ tả tơi hoa
Gươm thiêng oan nghiệt vung tay chém
Thỏ ngọc hợp tan với ác tà (2)
Sơn Khê
1- Theo quan niệm Trung Hoa cổ : Kiếp trước hai người nếu thù nhau thì kiếp này thành cha con ; nếu nợ nhau thì thành vợ chồng
2- Thỏ ngọc (Bạch thỏ ):Mặt trăng
Ác tà : (Kim Ô ): Mặt trời
Lời Thục Đế (Bài Họa 3)
Hằng đêm ta trở lại thành Loa
Tìm bóng con yêu đã trầm sa
Vì chồng nước mắt hoà với biển
Vì cha máu đỏ ánh chiều pha
Tuyệt vọng ta thành tên mù quáng
Yêu thương ai giết một đời hoa
Ngàn năm tiếng khóc con vô tội
Vang mãi trong ta mỗi xế tà
Đặng Lệ Khánh
Chữ Trung Chữ Nghĩa (Bài Họa 4)
Nước mất nhà tan chuyện Cổ Loa
Chọn trung hay nghĩa! cũng lầy sa
Mỵ Châu bởi nghĩa, đầu rơi máu
Trọng Nghĩa vì trung, hận lệ pha
Chọn nghĩa bất trung, cam mất nước
Chọn trung phụ nghĩa, thí đời hoa
Lưỡng nan tiến thoái: trung hay nghĩa?
Dị lộ đồng qui... bóng ác tà!
Anh Tú
Thủ Bình Bán Vắn
An Dương Vương Tử Tiết
Hồng Quang (Tí Trễ)
1-ADV (-----) Bên tai (xg)
Ta nghe (xg) dập dồn tiếng trống (cống)
2-Giữa hoàng hôn (u) gió đưa lồng lộng (cộng)
Người lực kiệt (xự) ngựa mỏi vó câu (xê)
3-(-----) Mỵ Châu (xê)
Con hãy (cống) ngăn dòng châu lệ (xự)
4-Khóc làm gì (xừ) giữa cảnh lửa binh (xê)
Giang sơn tang tóc (cống) điêu linh (xê).----
5-(-----) Cổ Loa (xg)
Thất thủ (cống).---- bởi vì đâu (xê)
6-Thần cung (xg) không còn linh nghiệm (xự)
Để quân Triệu Đà (hò) tiến vào như bão táp (cống)
7-(-----) Phải chăng (liu)
Đã hết (ú).---- đời Thục Phán An Dương Vương (liu)
8-Mỵ Châu : Cha ơi (ú) biển Đông trước mặt (cộng)
Cùng đường tuyệt lộ (xự) khó nỗi đào sanh (xê)
9-(-----) Sao cha (xê)
Không cầu khẩn (cống).---- Kim Qui Thần giải nạn (xự)
10-Thoát vòng tên đạn (xự) chỉnh đốn quân cơ (xê)
Phá giặc xâm lăng (xg) hung hăng (xê).----
11-ADV (-----) Cha xót xa (xg)
Nhìn cảnh (cống).---- nước mất nhà tan (xê)
12-Bởi lòng tham (xê) của cha con họ Triệu (xự)
Khiến Loa Thành (hò) phải tan tành đổ nát (cống)
13-(-----) Truy binh (liu)
Đã kề bên (liu) cha khó thể liệu lường (xề)
14-Hởi (cống).---- Thần Kim Qui (xê).----
Hãy (cống).---- mở cho ta sanh lộ (xự)
15-Xin Thần linh (xê) xuất hiện (xự).----
Chỉ đường (hò).---- ta thành tâm vọng bái (cống)
16-Thần Kim Qui : Bớ nầy (xề) Thục Phán An Dương Vương (liu)
Ngươi hãy (ú) nhìn lại sau ngươi (liu)
17-Tận mặt (xự).---- ngươi thấy chăng (xg)
Lông thiên nga (xg) bay trong nắng hoàng hôn (xg)
18-Đã đưa quân (xê) Triệu Đà (hò).----
Chặn hết đường (hò) ngươi khó nỗi đào sanh (xg)
19-Và hãy nhìn (xừ).---- Mỵ Châu (xê).----
Để biết vì đâu (xg) thần nỏ hết linh (xê)
20-Vì đâu (liu) cùng đường tuyệt lộ (cộng)
Và vì đâu (liu) Đế nghiệp tan tành (xàng)
21-Ghìm cương ngựa (xự) nhìn con (xê).----
Tuốt kiếm (cống).---- lòng Vương đày đoạn (xự)
22-Giết con rồi (hò) Vương tự sát theo con (xg)
Hóa thành Đỗ Quyên (xê) gọi mãi nước non (xg) .
... Thủ Bình Bán Vắn mỗi câu 4 nhịp 32 .
Hồng Quang (Tí Trễ)
Chuyện Tình Mị Châu Trọng Thủy
(Tiếng vọng)
Đã mấy nghìn năm,
Chuyện tình sử xanh
Mỗi lần nhắc đến,
Lệ vẫn long lanh!
(Người kể chuyện)
Xưa An Dương Vương
Cho xây Loa Thành.
Rùa Thần giúp sức,
Nỏ thần an dân.
Ai ngờ đâu rằng:
Nuôi mộng xâm lăng,
Triệu Đà toan tính
Đánh tráo Nỏ Thần.
Sai con Trọng Thủy
Sính lễ cầu hôn
Thăm dò tình thực
Mưu kế tinh khôn.
Ngây thơ chân chất,
Thương nàng Mị Châu
Chỉ đường lông ngỗng,
Dẫn đến thảm sầu!
Một ngày quân xâm lăng
Vây đánh chiếm Loa Thành
Toàn dân nước Âu Lạc
Khổ đau vì chiến tranh.
Nỏ Thần! Ôi Nỏ Thần!
Còn đâu nữa uy danh?
Giặc tràn lên đốt phá
Tan nát cả Loa Thành!
Đường Trần sao gian nan
Leo thác lại băng ngàn
Nàng theo cha bôn tẩu
Lệ rơi vì nhớ chàng...!
Phụ Hoàng! Ôi Phụ Hoàng
Về đâu nỗi hoang mang!
Giặc đàng sau truy kích
Phía trước biển mênh mông...
(Mị Châu)
Trọng Thủy chàng ôi!
Vì sao chia phôi?
Trắng đường lông ngỗng...
Thiếp ngóng tin ai!
Oan khiên ngút trời
Giặc ở tim tôi...
Hỡi tình phụ tử
Hết rồi! than ôi!
(Trọng Thủy)
Ta đã phụ người
Tình nào lên ngôi
Lời nào gian dối
Ngọc vỡ trâm rơi!
Non cao lỗi hẹn
Mị Châu! Mị Châu!
Tạ từ em nhé
Lệ sa giếng sầu.
(Điệp khúc)
Thôi nhé hận thù
Một lần suôi tay
Một lần nước mắt
Xóa hết chua cay!
Bên kia Cõi nào?
Người về bình yên
Trả đời oan trái...
Hẹn nhau kiếp sau!
(Người kể chuyện)
Đã mấy nghìn năm
Ngọc trong giếng trong
Chuyện tình từ đó
Lệ vẫn suôi dòng.
Song Thuận (2001)
Lữ Gia
Công ơn cụ Lữ Gia
Vì nước quên mình già
Truất Triệu Ai hàng giặc
Giam Cù Thị hại nhà
Giết An Quốc thân địch
Tôn Triệu Dương vua ta
Đại sự tuy chưa đạt
Phương danh còn mãi mà ...
Chính Hà
Sơ Thu Đinh Mão
Vịnh Lữ Gia
Diệt Tần, chống Hán, nghĩa thâm sâu
Nam Việt hiên ngang chẳng cúi đầu
Cù Thị lăng loàn toan bán nước
Ai Vương ủy mị tính theo Tàu
Tinh thần bất khuất như trăng tỏ
Ý chí quật cường tựa ánh sao
Quyết chiến, Lữ Gia thân dẫu bại
Phương danh còn mãi với đời sau!
Vương Sinh
Nghi Vấn Sử
Đất nước ta xưa ở chốn nào?
Động Đình, Ngũ Lĩnh núi non cao.
Phiên Ngung Nam Hải, trăm con lạc
Tượng Quận Phong Khê, bách tướng hao
Thục Phán dòng chi, vua Việt Quốc?
Triệu Đà giống ấy, chúa Nam Giao?
Than ôi! Họ Lữ cùng danh tướng
Chống Hán, diệt Tần, công cốc sao?
Vương Sinh
Vịnh Triệu Đà
Võ tướng mưu sâu, chí lại già
So tài Hán Đế, kém chi xa?
Diệt Tần chiếm cứ vùng Đông Quảng
Đánh Thục gồm thâu Bách Việt ta
Vua Bắc hãi hùng, sai sứ đến
Chúa Nam cao ngạo, dấy can qua
Phải chi họ Triệu dòng Hồng Lạc (1)
Đã được lưu danh sử nước nhà!
Vương Sinh
(1)Theo Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim), năm 214 tr. TL, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem quân đánh lấy đất Bách Việt (Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần. Nhà Tần chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm 3 quận: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây), và Tượng Quận (Bắc Việt). Tinh thần chống Hán diệt Tần của Triệu Đà rất phù hợp với tinh thần chống ngoại xâm người Lạc việt..