SỬ THỜI TRƯNG VƯƠNG [24/12/2012]
Sơ Lược Bối Cảnh Lịch Sử:
Năm 111 trước Tây Lịch, vua Vũ Đế nhà Tây Hán sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc sang đánh lấy nước Nam Việt, rồi cải thành Giao Chỉ Bộ và chia ra làm 9 quận, trong đó 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc về Bắc Việt và một phần Trung Việt ngày nay. Quận Hợp Phố thuộc về Quảng Đông.
Mỗi quận lại có viên thái thú cai trị và viên thứ sử giám sát.
Những viên thái thú này, ngoại trừ Tích Quang và Nhâm Diên tương đối tử tế, còn lại đều tham lam tàn ác, nhất là thái thú Tô Định tại quận Giao Chỉ, là người bạo ngược, lại thường áp dụng luật lệ nghiệt ngã, khiến dân Lạc Việt ai ai cũng đều căm giận. Hơn nữa, trong thời gian này bên Tàu có loạn Vương Mãng, người Hán chạy sang Giao Chỉ lánh nạn, đã cậy thế đồng hương làm quan cai trị, chiếm hữu đất đai và tranh giành về kinh tế, khiến dân bản xứ khổ cực vô cùng.
Năm 40, sau khi ông Thi Sách là chồng bà Trưng Trắc nổi dậy ở Chu Diên bị Tô Định sát hại, Bà Trưng Trắc bèn cùng em là Trưng Nhị vì nợ nước thù nhà, đã nổi dậy ở Mê Linh, phá thành Luy Lâu và đánh đuổi Tô Định về Tàu.
Chẳng bao lâu, Hai Bà dẹp yên các nơi, đánh chiếm 65 thành trì, được các quận Cửu Chân, Nhật Nam, và Hợp Phố cùng theo về với quận Giao Chỉ. Hai Bà Trưng lên ngôi báu, trị vì nước Nam được 3 năm (năm 43) thì vua Hán sai Mã Viện sang đánh báo thù và chiếm lại nước ta, khiến Hai Bà Trưng phải nhẩy xuống sông Hát Giang tự trầm để bảo toàn danh tiết.
Cuộc Chiến Thắng Oai Hùng Của Hai Bà Trưng
Triều đại Trưng Nữ Vương tuy ngắn ngủi, chỉ có 3 năm, nhưng tiếng vang về cuộc chiến thắng oai hùng của Hai Bà đã làm rúng động đế triều nhà Đông Hán bấy giờ, đồng thời còn vang vọng mãi mãi về sau... Đây là một điểm son trong lịch sử đấu tranh bảo vệ giang sơn của nòi giống Việt; bởi vì nhờ cuộc chiến thắng của Hai Bà Trưng, dân tộc Việt đã vận dụng được đầy đủ và toàn vẹn lực lượng lao động và trí thức nam nữ vào công cuộc dựng nước và giữ nước.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Viết:
“Vua (Trưng Nữ Vương) rất hùng dũng, đuổi Tô Định, dựng nước xưng vương...”
Lê Văn Hưu viết: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thể đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương.”
Trần Trọng Kim viết: “Hai bà họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài trí của người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà ghi tạc cái danh tiếng hai người nữ anh hùng nước Việt Nam ta”.
Ngô Thì Sĩ viết*: “Vương là người con gái, hô một tiếng mà đuổi được thái thú nước Tàu, như đuổi đứa nô bộc, lấy lại được đất Ngũ Lĩnh, kiến quốc, tự xưng làm vua, cũng là bậc hào kiệt trong hàng nữ lưu.”
Sử thần bàn rằng*: “Bà Trưng là một người con gái góa ở Giao Chỉ, không có một thước đất, một người dân, chỉ vì báo thù chồng mà khởi binh đánh một trận, cả 6 quận đều theo, định được 56 thành dễ như lấy đồ vật trong túi, làm cho bọn quan lại, Thú, Úy cai trị trong thời gian 150 năm, phải bó tay không làm gì. Than ôi! cái khí anh linh của trời đất, không chung đúc vào người con giai, mà lại chung đúc vào người con gái, nếu có phải lòng trời tựa Lạc việt, thì có thể lấy cả được Kinh, Dương, đâu lại chỉ có đất Ngũ Lĩnh mà thôi.”
Nguyễn Nghiễm bàn rằng*: “...Bà Trưng Vương nổi giận, khích lệ đồng bào, nghĩa binh đi đến đâu, gần xa đều hưởng ứng, 50 thành Ngũ Lĩnh đều khôi phục được hết, dân sự đang khổ sở đắng cay, lại được trông thấy mặt trời. bà thật quả là bậc anh hùng hơn người nhiều lắm”.
Sách thông luận bàn rằng*: “...Tiếng tăm hùng dũng của Bà (Hai Bà Trưng) chấn động cả Trung Hoa, cơ nghiệp mở mang của Bà giọc ngang trong trời đất, thật là anh hùng...”.
* Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ, sách đã dẫn, trang 40-43.
Thơ Ca Vịnh
Vịnh Hai Bà Trưng
Ngựa Gióng đã lên không,
Rừng Thanh voi chửa lồng.
Nở chồi hoa nụ Lạc,
Mở mặt nước non Hồng.
Trăng tỏ gương hồ Bạc,
Mây tan dấu cột đồng.
Nén hương lòng cố quốc,
Xin khấn một lời chung.
Hoàng Thúc Hội
Cảm đề 1
Uy nghi lưng tượng, tuốt gươm thần
Nhị vị Anh Thư đưổi ngoại xâm.
Dũng mãnh quân Nam, cờ thét gió
Kinh hoàng giặc Hán, lửa vong thân.
Vương Sinh
Cảm đề 2
Trên voi trận tuốt gươm, khởi nghĩa !
Dáng oai nghiêm mang sức mạnh non sông
Từ nghìn xưa để lại giống anh hùng
Sống giông tố muôn đời không khuất phục !
Sơn Khê
Cảm đề 3
Trưng nữ Vương cưỡi voi đuổi giặc
Vung gươm thiêng diệt Hán xâm lăng
Cờ vàng phất bay ngời khí thế
Gươm bạc rực sáng cõi trời Nam
XM
Hai Bà Trưng
Hai Bà làm rạng giống Tiên Long
Nợ nước thù nhà gánh vác chung
Múa kiếm phất cờ em giúp chị
Điều binh khiển tướng chị thay chồng
Xông pha một trận thu bờ cõi
Vũng vẫy ba năm dựng núi sông
Lãng Bạc, Hát Giang dào dạt sóng
Nghìn thu vọng tiếng gái Châu Phong
Chính Hà
Mạnh Thu Đinh Mão
Hai Bà Trưng
Phất cờ nương tử có hai bà
Làm rạng trời Đông gái Việt ta
Gan sắt nêu cao đền nợ nước
Giải đồng kết chặt trả thù nhà
Long Biên một trận xua Tô Định
Lãng Bạc hai phen đánh Phục Ba
Tiếng trống Mê Linh còn dội lại
Nghìn thu vang vọng khắp sơn hà
Chính Hà
Tháng 8-1987
Bài Xưóng:
Trưng Nữ Vương
Vẹn nghĩa non sông trọn chữ đồng
Ngàn xưa tiết liệt gái phương đông
Thét voi xông trận huơ gươm bạc
Giục ngựa ra quân rạng má hồng
Khiếp vía tan hồn quân Bắc ải
Lừng danh đẹp mặt gái Nam tông
Cung vàng, điện ngọc, đâu màng tưởng
Giúp nước, an đân, rửa hận chồng
Chu Hà
Bài Họa 1: Trưng Nữ Vương
Trung trinh, tiết liệt, gái phương đông
Gạt nước mắt, quấn vành sô trắng
Chiêu binh quân
Cưỡi voi đuổi giặc nơi Bắc ải
Bình nước an dân chốn Nam tông
Thất thế sa cơ, đành tự vẫn
Trọn tiết trung trinh, thác theo chồng
XM
Bài Họa 2: TRƯNG VƯƠNG
Thù nhà, hận nước, kết tâm đồng
Đuổi giặc, hai Bà, thắm sử Đông
Tô Định bỏ thành, tan chiến trận
Trưng Vương dựng nghiệp, xứng con Rồng
Trời Nam cứu quốc, lừng nhi nữ
Đất Bắc cướp làng, nhục giống tông
Góp sức xây đời, yêu đất tổ
Tiết trinh, hùng khí, trọn cùng chồng
Ngoc Lãng
Chị em khởi nghĩa, ý tâm đồng
Đuổi Hán, hào hùng gái Á Đông
Đánh giặc, nể vì phe mặt trắng *
Lên ngôi, hãnh diện phái quần hồng
Đoạt sáu lăm thành, rạng tổ tông.
Trưng Trắc, sử xanh gương tiết liệt
Lo tròn nợ nước, trả thù chồng.
Vương Sinh
Cảm đề Hai Bà Trưng
Uy nghi lưng tượng, tuốt gươm thần
Nhị vị Anh thư đưổi ngoại xâm.
Dũng mãnh quân Nam, cờ thét gió
Kinh hoàng giặc Hán, lửa vong thân. (VS)
Nghìn mây hồng nổi gương trinh bạch
Vạn sóng xanh đưa nước trắng ngần
Nhẹ bước gieo mình nêu tiết nghĩa
Hát Giang chính khí sáng hồng quần (SK)
Trưng Vương
Văng vẳng còn vang chiến trận qua
Hiên ngang hùng khí dáng hai Bà
Trên voi xông tới gươm ngời sáng
Dưới đất chạy dài giặc hoảng la
Phất phới cờ đào, quân lướt mãi
Tơi bời áo mão, giặc chuồn xa
Bao năm luôn nhắc gương oanh liệt
Đất nước lẫy lừng, chiến thắng ca
Ngọc Lãng
Đệ Nhất Nữ Anh Hùng
Lẫy lừng Trưng nữ đất Châu Phong
Đậm nét sử vàng, đẹp núi sông
Kiếm báu xưng vương đuổi giặc bắc
Gươm thần khởi nghĩa trả thù chồng
Phục Ba gian tướng quân xâm lược
Tô Định tham quan kẻ cướp công
Sông Hát trong xanh gương bất khuất
Trưng Vương đệ nhất nữ Anh Hùng.
Hà Việt Văn
TRƯNG NỮ VƯƠNG
Thù hận đôi lần chau khoé hạnh
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi
Dồn sương vó ngựa xa thăm thẳm,
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi .
Ngang dọc non sông đường kiếm mã,
Huy hoàng cung điện nếp cân đai .
Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa,
Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai .
Máu đổ cốt xong thù vạn cổ,
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai
Hồn người chín suối cười an ủi,
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi .
Lạc Tướng quên đâu lời tuyết hận,
Non hồng quét sạch bụi trần ai .
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận,
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời ..
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa,
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi .
Chàng ơi , điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi ...
Ngân Giang Nữ Sĩ ( 1939 )
(Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)
TRƯNG VƯƠNG
Vang danh muôn thuở gái Mê Linh
Liệt nữ nêu cao chữ tiết trinh
Ôm nỗi căm hờn sầu mất nước
Ủ niềm đau khổ hận thù tình
Phất cờ Giao Chỉ mong đuổi giặc
Cô thế Hát Giang giữ sạch mình
Đất Việt hùng anh trang sử viết
Trưng Vương công đức thật quang vinh
Sáng Trăng (3/16/05)
Trước đó tài trai thấy nhục vinh?
Nước Việt nghìn đời chốn địa linh
Vì dân phận gái dạ trung trinh
Quần thoa vượt trổi so nam tử
Chí khí thăng hoa chẳng lụy tình
Trăm sáu anh thư thề dưới trướng
Bao nhiêu liệt nữ xả thân mình
Cẩm Khê cứ địa danh còn đó
Trước đó tài trai thấy nhục vinh?
Hà Phương Hoài
TRƯNG NỮ VƯƠNG
Nam Việt sử xanh rạng đức vinh
Sơn hà tô điểm nét kiên trinh
Cưỡi voi đuổi sạch quân gian ác
Vung kiếm trả thù nợ nước tình
Quốc vận chưa nguôi cơn thống khổ
Thế thời đành chịu hiến thân mình
Thiên thu còn vọng hờn sông Hát
Trưng Nữ Vương danh sáng hiển vinh
Sáng Trăng (20/03/05)
Trưng nữ vương (Bài Họa)
Ngậm hờn sông núi thác hiển vinh
Chị em thề nguyện một lòng trinh
Tiết tháo anh thư tròn đạo nghĩa
Liệt trinh hùng nữ trọn ân tình
Non nước sắt son nguyền tâm khảm
Quê hương một dạ giữ trong mình
Nghìn năm sách sử còn ghi chép
Gương sáng hai bà vạn hiển linh
Hải tôi
Bài Xướng: Khóc Thi Sách
Thi Sách chàng ơi duyên lỡ làng
Trăm năm chẳng trọn nghĩa tào khang
Khóc ai lệ nến tuôn lai láng
Hờn bấy chăn đơn luống bẽ bàng
Điện ngọc canh dài sầu lãng đãng
Cung vàng đêm vắng nhớ mang mang
Hát Giang sương khói trầm cung nguyệt
Nguyện nối đường tơ thiếp gặp chàng
Chu Hà
Bài Họa
Từ chàng khuất núi, duyên lỡ làng
Âm dương ngăn trở nghĩa tào khang
Ngoài trận mạc, cầm quân anh dũng
Chốn cô phòng, khóc phận bẽ bàng
Ba quân dưới trướng ngời khí thế
Một mình đối bóng buồn mênh mang
Thù nhà, hận nước nguyền phải trả
Mộ quân, đuổi giặc, thoả ý chàng
XM
Trưng Trắc khóc chồng
(Ca) Lý Vọng Phu
Bản gồm 8 câu 4 nhịp
1- Ôi (xang) hởi (liu) phu +(oan) quân (xê)
2- Máu đào (hò) tuôn + đổ (xế) Trong chốn (xê) sa + tràng (hò)
3- Nghe gió (xê) kiếm tung + hoành (hò) Đau đớn quá (liu) chàng + ôi (cống)
4- Ôi bạn tình + ôi (liu) Thi Sách hởi (liu) chàng + ôi (cống)
5- Phu phụ (xê) nở chia lìa Mỗi người về (xề) một nơi (liu)
6- Thiếp nguyện sẽ (liu) theo + chân (oan) Gươm báu nầy (liu) lấy máu quân gian (oan)
7- Anh linh chàng (hò) vương + vấn (xự) bảng lảng (xê) nơi + nầy (hò)
8- Phu quân về (xề) minh chứng cho em (liu) Thiếp sẽ cùng quân sĩ tiến lên (liu)
(Ca) Vọng Cổ Câu 1
1- Phu quân hởi, Thi Sách phu quân hãy chứng tri cho tấm lòng son sắc, vì nước vì dân thiếp nguyện tiếp bước chân .... chàng . Nhớ những ngày luyện kiếm dưới trăng mình đã thệ nguyền . "Quyết đứng lên phất cờ khởi nghĩa cứu nước non nhà thoát hoạ ngoại xâm ". Nay chàng đã vì nghĩa cả vong thân, thiếp sẽ thay chàng tiếp tục con đường tranh đấu, kiếm báu trong tay nợ nước thù nhà thiếp vấn lên đầu vành khăn tang trắng .
2- Giặc đến nhà đàn bà phải đánh, thiếp quản chi tới gió bụi sa trường. Khi chúng ta đã quyết theo một con đường. Cứu lê dân thoát vòng nô lệ, chống lủ tham tàn khát máu xâm lăng. Tên Tô Định bạo tàn độc ác tham ô, thiếp sẻ bắt hắn phải trả đền nợ máu, xin phu quân dưới cửu tuyền yên nghỉ, xin đất trời minh giám chứng tri.
Tý Xuân (Trương Ngọc Bảo Xuân)
Trưng Vương Khởi Nghiệp
Bên bờ sông Hát lập đàn thờ
Khởi nghĩa ban truyền quét nhuốc nhơ
Khí thế ngút trời trang tuấn kiệt
Hào quang chiếu diệu đấng anh thư
Thù nhà phải trả lòng cương quyết
Nợ nước mong đền chí chẳng ngơ
Giải đất Mê Linh chờ dậy sóng
Trưng Vương nổi trống hiệu dân chờ
Bác Từ
Mê Linh
Trống hiệu dân chờ thúc giục vang
Áo ào như ngọn thủy triều tràn
Trưng Vương dũng mãnh quân thù nát
Tô Định Kinh hoàng đám giặc tan
Góp sức cùng lòng xây tổ quốc
Hoà mình chung ý dựng giang san
Mê Linh lừng lẫy ngàn năm đứng
Sáng rực vòm trời giãi đất Nam
Bác Từ
TRƯNG NỮ VƯƠNG
Đông Hán tham tàn cướp núi sông
Nhị Trưng em chị quyết chung lòng
Ngăn thù cứu nước đòi công lý
Đuổi giặc an dân trả hận chung
Lịch sử ngàn năm luôn nhớ đức
Giống nòi vạn kiếp mãi ghi công
Mê Linh trống giục rền sông núi
Rạng rỡ uy danh gái Lạc Hồng
Viễn Khách
Mê linh
Đêm Mê Linh khí hùng nổi dậy
Báo thù chồng hận nước ra tay
Quần thoa nào quản thân gầy
Gươm vàng áo trận từ đây gió ngàn
Cõi bắc phương giặc bàng hoàng chạy
Chốn nhà nam lừng lẫy Nhị Trưng
Quân ca chiến thắng tưng bừng
An dân lạc nước bốn phương giao hoà
Bày chiến trận Phục Ba trăm ngã
Quyết cùng Bà một dạ tranh đua
Hát Giang sóng bạc mây thưa
Trầm thân ngọc tiết anh thư muôn đời
Trời tháng hai gió bồi hồi thổi
Khí tung trời bao nổi truân chuyên
Anh linh kính cẩn một niềm
Bên bờ hương khói đáp đền ân sâu
Vũ Thị Thiên Thư
TƯỞNG NIỆM
TRƯNG NỮ VƯƠNG
1/2- Toàn quốc cung nghinh vọng nhị Trưng,
Hồn thiêng sông núi cũng rưng rưng.
Phong ba dòng Hát vang từng chốn,
Gươm giáo Mê Linh dội khắp vùng.
Thánh đức kinh hồn quân bao ngược,
Thần uy táng đởm giặc tàn hung.
Ô danh Tô Định phường xâm lược,
Muôn thuở Anh Thư tiếng lẫy lừng.
2/2- Lẫy lừng kim cổ nhị Trưng Vương,
Chí ngút từng xanh khó thể lường.
Đất Tổ giữ gìn vùng Hải đảo,
Quê Cha bảo vệ giải Biên cương.
Diệt tên Tô Định không cam nhịn,
Đuổi gã Phục Ba, há chịu nhường.
Lãng Bạc, Mê Linh ngời chính khí,
Nghìn sau con cháu vẫn noi gương.
TRƯỜNG GIANG
Cảm Đề Đền Mã Viện (Xướng)
Trèo non vượt bể biết bao trùng!
Một trận Hồ Tây chút vẫy vùng
Quắc thước khoe chi mình tóc trắng.
Cân đai đọ với khách quần hồng!
Gièm chê luống những đầy xe ngọc,
Công cán ra chi dựng tượng đồng?
Ai đó chép công, ta chép oán
Công riêng ai đó, oán ta chung.
Hải Nam Đòan Như Khuê
Cảm đề đền Mã Viện (Họa 1)
Mã Viện tuân theo lệnh Cửu Trùng
Đào rừng, khoét núi xâm lăng vùng.
Ba năm sách lược, lo đầu bạc
Một phút giao tranh, sợ má hồng
Lãng Bạc anh hùng, sao thất sắc? (1)
Khâm Châu hào kiệt, chẳng chôn đồng (2)
Vang danh một thuở phường xâm lược
Đền, tượng, thêm buồn nỗi nhục chung!
Vương Sinh
(1) Tại hồ Lãng Bạc, Mã Viện đã thất sắc khi thấy khí độc bốc lên ngùn ngụt, con diều đang bay bỗng rớt xuống mà chết.(2) Theo Lê Tắc trong An Nam Chí Lược, Mã Viện chôn cột đồng ở ranh giới động Cổ Sum, Khâm Châu với lời hăm dọa dân Giao Chỉ "Đồng Trụ chiết, Giao Chỉ diệt"
Cảm Đề Đền Mã Viện (Họa 2)
Lũ giặc xâm lăng điệp điệp trùng
Tham lam Lưu Tú ước toàn vùng
Lĩnh Nam Trưng Đế vung gươm bạc
Tướng Bắc Phục Ba thử yếm hồng
Đoàn Chí lâu thuyền chìm đáy nước
Lưu Long xác lính phủ đầy đồng
Vang danh phận liễu soi muôn kiếp
Oán hận ông già hám đỉnh chung
Trần Việt Bắc
*Lưu Tú: Hán Quang Vũ , (ở ngôi :5BC-57BC) dựng nhà Đông Hán
Đoàn Chí : Lâu Thuyền Tướng Quân (Đô Đốc)
Lưu Long : phó tướng của Mã Viện
Cảm Đề Đền Mã Viện (Bài Họa 3)
Tài giỏi gì ông! Quân điệp trùng
Người đông đất rộng trải bao vùng
Viễn chinh thử lửa bầm môi tím
Đối trận ra quân đứt giải hồng
Miễn vạ gian tham, tha mạng lão
Chơi trò đểu cáng, dựng trụ đồng
Tâu công cướp đất vui Quang Vũ
Mối hận dân Nam mãi gánh chung
Trần Việt Bắc
Đề Đền Sầm Nghi Đống
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng có bấy nhiêu!
Hồ Xuân Hương
Văn Tế Hai Bà Trưng
(3 hồi 9 tiếng chiêng trống trước khi đọc văn tế)
(Tên nước...tên tỉnh)... ngày... tháng... năm...
Chúng con, cựu nữ sinh Trưng Vương và thân hữu, cùng đồng bào Hải ngoại, cúi đầu dâng hương trước bàn thờ anh linh Hai Bà, kính cẩn đọc bài văn tế (chiêng trống):
Than ôi!
Giòng sông Hát mưa rơi lã chã
Đền Đồng Nhân, hương tỏa mong manh (chiêng trống)
Nước Nam quyền lực bạo hành
Tìm đâu Trưng Nữ đoạt thành, an dân?! (chiêng trống)
Nhớ xưa:
Thời Bắc thuộc tham tàn Đông Hán
Bủa luật rừng, thê thảm Lạc dân (chiêng trống)
Thái thú Tô Định bất nhân
Túi tham vơ vét tư trang bạc vàng!! (chiêng trống)
Nỗi hờn căm ngút ngàn sỹ khí
Lửa đấu tranh âm ỉ, bùng lên… (chiêng trống)
Ngài Thi Sách, huyện Châu Diên
Quyết tâm chống giặc, hy sinh thân mình! (chiêng trống)
May mắn thay!
Bà Trưng Trắc nghĩa tình sau trước
Nặng thù nhà, nợ nước hai vai (chiêng trống)
Cùng em Trưng Nhị, gươm mài
Phất cờ khởi nghĩa, đoạt ngay Lâu thành! (chiêng trống)
Tô Định sợ thất thần, bỏ trốn
Vùng Lĩnh Nam ba quận theo về (chiêng trống)
Sáu lăm thành quách yên bề
Hai Bà, ngôi báu trị vì nước Nam. (chiêng trống)
Nhưng hỡi ôi!
Trưng Nữ Vương ba năm mở nước
Triều Mê Linh mới được dựng xây (chiêng trống)
Mã Viện, lang sói một bầy
Đào rừng, khoét núi, dạn dầy xâm lăng (chiêng trống)
Ôi định mệnh, trái ngang vận nước!
Ách gông cùm vừa được gỡ ra (chiêng trống)
Giòng sông nghiệt ngã cuốn xa
Giấc mơ tự chủ, Hai Bà còn đâu?! (chiêng trống)
Chúng con nay:
Mỗi tháng hai, nhớ ngày mồng sáu
Nguyện lời thề, noi dấu Anh Thư (chiêng trống)
Con đường Dân Chủ, Tự Do
Khắc tâm ghi nhớ, chung lo ngày về…! (chiêng trống)
Thượng hưởng!
(một hồi, 3 tiếng chiêng trống chấm dứt văn tế)
(Song Thuận soạn văn tế - www.hungsuviet.com)
Hai Bà Trưng
Mưỡu
Bà Trưng khởi nghiã diệt trừ ngoại xâm
Hát Nói
Lạc Hồng chính thống
Hai bà Trưng thuộc dòng giống Vua Hùng
Phất cờ đào dẹp giặc trả thù chung
Chí bất khuất lẫy lùng trong bốn bể
Kẻ thống trị kinh hồn thất thế
Thu thành trì về một mối với non sông
Cùng cả nước chung lòng lo kiến thiết
Dòng Hát giang tuẫn tiết để theo chồng
Muôn đòi Tổ Quốc ghi công.
Hà Việt Văn
VĂN TẾ
TRƯNG NỮ VƯƠNG
(Lễ Tưởng Niệm Nhị Vị Trưng Vương
do Hội Phụ Nữ Việt Nam Hải Ngoại
Bắc Cali tổ chức ngày 13/3/2005)
Nhớ Chư Linh xưa :
Sinh ra tại đất nước anh hùng.
Khôn lớn trong gia đình Lạc Tướng.
Tài cao át Sao Đẩu nghìn trùng,
Chí lớn tựa Thái Bình vạn trươ.ng.
* Thân bồ liễu, không chịu ép một bề, bởi Trời sinh bản chất trung kiên,
Phận nữ nhi, quyết không thua hai lượt, vì Đất dưỡng tâm hồn hướng thươ.ng.
* Người Phương Nam, giòng máu vốn kiên cường, cây có cội, Cha Hồng Lạc anh minh, giống Tiên Rồng,
Dân Nước Việt, tinh thần thừa uy dũng, nước có nguồn, Mẹ Âu Cơ kiều diễm, giòng Lạc tướng.
THỜI BẮC THUỘC :
* Giặc Đông Hán dã man, xâm lăng Nam Ngạn để mở mang,
Cướp Bắc Phương hung bạo, chiếm cứ Tây Nguyên mong bành trướng.
* Kế hoạch xâm lăng : cướp đất, phá nhà, bắt muôn dân xuống biển kiếm ngọc trai, chôn xác nơi hải đảo xa xôi, để tìm hải cẩu, kình ngư,
Chương trình cai trị : giết người, cướp của, lùa trăm họ lên rừng tìm sừng giác, vùi thân chốn sơn lâm hoang dã, hầu bắt hắc xà, bạch phươ.ng.
BỌN GIẶC HÁN THÌ :
* Bản chất độc tôn, quan tham cùng khắp trong ngoài, suốt tháng thu gom vàng chật két,
Tính tình gian ác, lại nhũng tràn đầy trên dưới, quanh năm vơ vét bạc đầy rương.
* Ỷ sức mạnh bao che kẻ nịnh, chẳng kể đến luân thường, đạo lý, giết kẻ sa cơ, gây chồng chất oan khiên,
Cậy dân đông bách hại người trung, không màng chi tình nghĩa, công bằng, chém người yếu thế, tạo ngút ngàn nghiệp chướng.
* Gian hùng, tàn ác, chẳng một chút tình người, áp bức trẻ già không kém Đào Hoàng,(1)
Quỷ quyệt, độc tài, không mảy may nhân tính, kìm kẹp gái trai còn hơn Thương Ưởng.(2)
VÌ YÊU NƯỚC NÊN :
* Nhìn cương thường băng hoại vì họa xâm lăng, mong tung song kiếm giết lũ bá quyền,
Thấy phong hóa suy vi bởi quân giặc cướp, ước múa trường thương diệt phường bành trướng.
* Bỏ ngọc ngà châu báu, rèn luyện kiếm cung, khí tiết sung thiên, đợi thế cuộc thực hành mưu lược,
Lìa vàng bạc lụa là, trau dồi võ nghệ, tinh thần mãn địa, chờ thời cơ giãi tỏ can trường.
* Không chuộng cung vàng, điện ngọc, dấn thân chống lại quân thùø bởi trăm họ vẫn nhọc nhằn
Chẳng ham gác tía lầu son, hy sinh giành lấy nước nòi, vì muôn dân chưa sung sướng.
* Thề nối chí Ông Cha, cưỡi thanh long, chém mãng xà, tỏ rõ tâm can,
Nguyện theo gương Tổ phụ, đâm bạch hổ, đạp kình ngư, phô bày lý tưởng.
QUYẾT TÂM LÀM CÁCH MẠNG DIỆT THÙ:
* Thông báo khắp Đông Tây, anh hùng quy tụ tựa lá rừng, quyết chôn vùi kỳ hết giống sài lang,
Loan truyền toàn Nam Bắc, hào kiệt kéo về như mưa lũ, thề tiêu diệt không còn loài sáo cưỡng.
* Giao Chỉ Bộ, Tô Định hại dân, chống quân Nam kiêu dũng, anh hùng, phải xuống ngựa chạy trốn quy gia,
Mê Linh Huyện, Trưng Vương cứu nước, đuổi giặc Hán yếu hèn, bạc nhược, lên ngôi báu nắm quyền chấp chưởng.
* Thu phục thành trì sáu chục, quê Cha mất, đã được thu hồi, toàn dân Hạnh phúc, Bình an
Trị vì ngôi báu ba năm, đất Tổ còn, không ai cướp đoạt, cả nước Phú cường, Thịnh vươ.ng.
* Đất nước phục hoạt hồi sinh, trai gái hân hoan lao động, việc tầm tang hợp lực giai thành,
Quê hương trung hưng thịnh trị, trẻ già nô nức đắp xây, khâu canh tác đồng lao cộng hưởng.
HÁN ĐẾ PHỤC THÙ :
* Hán Đế tập trung tướng giỏi, binh hùng, nườm nượp theo đường thủy bộ, kích tiên, tốc thoái, phục thù nhất chí chẳng thèm hòa,
Trưng Vương gom góp thương dài, mác ngắn, rùng rùng rõi nẻo sơn lâm, đả viện công đồn, rửa hận quyết tâm không chịu nhươ.ng.
* Giặc mạnh giàu bởi lính đã chuyên môn, vũ khí tối tân, thắng thế càng thêm giáo thêm gươm,
Ta yếu kém vì quân chưa tinh nhuệ, khí tài thô lậu, thua thiệt lại hao binh tổn tướng.
* Thất bại quyết chẳng hàng, Sông Hát Giang tuẫn tiết, Bốn Bể lưu danh đấng Quân Vương
Lui binh không chịu nhục, Thành Liên Lậu (3) đăng quang, Năm Châu nức tiếng giòng Lạc tướng
HÔM NAY :
* Toàn dân không quên câu “Uống nước nhớ người đào giếng”, nghìn năm tưởng niệm công lao hãn mã (4)
Cả nước vẫn nhớ đoạn “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, muôn thuở khắc ghi khí tiết lăng sương (5)
NGUYỆN CẦU XIN PHÙ HỘ ĐỘ TRÌ :
* Nước cũ mau đổi sắc, toàn dân nhận Dân Chủ, Tự do, muôn thuở an nhàn,
Quê xưa sớm thay màu, cả nước hưởng Nhân Quyền, Hạnh Phúc, nghìn năm sung sướng.
Thượng hưởng
27/1/02005 TRƯỜNG GIANG
* GHI CHÚ :
(1)Năm Ất Dậu (256) Nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy (Thời Tam Quốc) sai quan sang trấn giữ Giao Châu là đất cũ của Việt Nam. Nhà Ngô sai Đào Hoàng sang đánh Ngụy lấy lại Giao Châu. Năm Canh Tý (280) Nhà Ngô mất nước, Đào Hoàng đầu phục nhà Tấn được giữ chức cũ. Ông này cai trị dân quá khắc nghiê.t.
(2) Thương Ưởng là Tướng Quốc đời nhà Tần. Ông đã ban hành chính sách Ngũ Gia Liên Bảo giống như Tổ Tam Tam Chế của Cộng Sản) buộc mỗi gia đình liên hệ phải báo cáo nhà cầm quyền mọi hoạt động của nhau. Ai bất tuân sẽ bị chém đầu. Sau Ông bị thất sủng, trốn vào tá túc nhà dân. Dân báo cho chính quyền. Ông bị bắt và bị xử tử chết vì chính sách Ngũ Gia Liên Bảo do chính Ông ban hành
(3) Liên Lậu là bản doanh của Vua Bà chống quân Đông Hán.
(4) Hãn mã là mồ hôi ngư.a. Ý nói công lao đi đánh giặc khổ cư.c.
(5) Lăng sương là lãng đãng ở trong sương. Linh hồn người đã khuất, mờ mờ ảo ảo, ẩn hiện không cùng.